“Phong” là nền nếp đã lan truyền rộng rãi, ‘Tục” là thói quen lâu đời. Nội dung phong tục bao hàm mọi mặt sinh hoạt xã hội…. Phong tục có thể có sức mạnh hơn cả những đạo luật. Trong truyền thống văn hoá của dân tộc ta, có nhiều phong tục cần cho đạo lý làm người, kỷ cương xã hội.
Phong tục không ngừng biến đổi theo trào lưu biến đổi văn hoá xã hội. Các phong tục được thể hiện trong cuộc đấu tranh xã hội đã, đang và sẽ tiếp diễn mãi giữa cái cũ và cái mới. Ví dụ, quan niệm về thẩm mỹ luôn biến đổi theo sự phát triển của xã hội: búi tóc của nam giới, bộ răng đen của nữ giới và v.v. Trong quá trình phát triển, phong tục là một mảng văn hóa tinh thần không thể thiếu được của người dân Việt Nam. Chính những giá trị văn hóa cội nguồn của dân tộc đã khẳng định bản sắc và sự trường tồn của văn hóa Việt Nam…
Phong tục thờ cúng tổ tiên: Người Việt Nam có phong tục thờ cúng tổ tiên để tưởng nhớ đến nguồn gốc của mình. Tục thờ cúng tổ tiên của người Việt ra đời từ lâu, trên cơ sở niềm tin về sự bất tử của linh hồn sau khi con người đã chết; tin rằng con người ta chết đi vẫn về thǎm nom, phù hộ cho con cháu. Thờ cúng tổ tiên, ông bà đã trở thành một phong tục, là chuẩn mực đạo đức và nguyên tắc làm người, đồng thời là một phần quan trọng trong đời sống tâm linh của người Việt Nam, đặc biệt là cuộc sống ở các làng quê.
Trong mỗi gia đình, bàn thờ cúng tổ tiên được đặt ở vị trí trang trọng nhất và trở thành nơi con cháu khấn vái trong những ngày tuần, ngày giỗ, ngày Tết, hoặc khi có hiếu hỷ, việc to, việc nhỏ với mong muốn được gia tiên phù hộ. Mọi biến cố trong gia đình đều được gia chủ báo cáo với gia tiên. Trong việc thờ phụng tổ tiên thì ngày giỗ rất quan trọng, thường mời họ hàng thân thuộc.
Đã bao thế kỷ trôi qua, quan niệm và cách thức thờ phụng tổ tiên của người Việt Nam đã có nhiều thay đổi nhưng ý nghĩa lớn nhất thì vẫn được giữ nguyên. Người Việt Nam coi việc thờ phụng tổ tiên là một trong những nguyên tắc đạo đức làm người.
Lễ Tết:
Tết Nguyên Đán: Là ngày lễ lớn nhất vào ngày mùng 1 tháng Giêng âm lịch. Mỗi năm đến Tết những người dù ở xa vẫn cố gắng về đoàn tụ với gia đình, họ hàng.
Tết khai hạ: Mùng 7 kết thúc Tết Nguyên Đán cũng là lúc bắt đầu Tết khai hạ – Tết để chào đón một mùa xuân mới.
Tết Nguyên Tiêu (Tết Thượng Nguyên): vào đúng rằm tháng Giêng, ngày trăng tròn đầu tiên của năm. Người dân nô nức đi chùa chiền, cầu mong mọi sự an lành đến cho mình và những người thân.
Tết Hàn Thực: Vào ngày 3 tháng 3 âm lịch, người dân thường làm bánh trôi, bánh chay để cúng gia tiên.
Tết Thanh Minh: Vào tháng 3 âm lịch,mọi gia đình đi thăm mồ mả của những người thân, sửa sang, thắp hương – hay còn gọi là lễ Tảo mộ.
Tết Đoan Ngọ: Vào mùng 5 tháng 5 âm lịch (còn gọi là Tết giết sâu bọ). Do thời tiết chuyển mùa, dễ sinh bệnh nên có tục trừ phùng phòng bệnh.
Tết Trung Nguyên: vào rằm tháng 7. Theo sách Phật, thì ngày này được coi là ngày xá tội vong nhân, ngày báo hiếu cha mẹ.
Tết Trung Thu: vào rằm tháng 8. Được coi là ngày Tết của trẻ con. Người lớn thường tổ chức các hoạt động vui chơi cho trẻ em như múa lân, rước đèn và mua quà, bày hoa quả, bánh kẹo để trông trăng…
Tết Táo Quân: vào ngày 23 tháng Chạp. Gia đình nào cũng làm cơm để tiễn ông Táo về trời. Có một nét rất đặc sắc đó là các nhà thường mua cá Chép thả sông (ông Táo cưỡi lên trời) và quần áo bằng giấy cho ông Táo và bà Táo. Sau khi thắp hương và đã tiễn ông Táo xong, cá chép được thả ra ao, hồ, sông, ngòi còn quần áo sẽ được đốt. Người dân bắt đầu dọn dẹp nhà cửa, chuẩn bị bàn thờ cúng gia tiên đón Tết.
Giao thiệp: Theo phong tục Việt Nam, miếng trầu là đầu câu chuyện, biểu hiện sự tôn kính, phổ biến dùng trong các lễ tế thần, tế gia tiên, lễ tang, lễ cưới, lễ thọ, lễ mừng… Ngày nay, tục ăn trầu đã không còn phổ biến, nhưng vẫn còn tồn tại trong các đám ăn hỏi, đám cưới.
Cưới hỏi: Lễ cưới ở Việt Nam có một số quy định bắt buộc.
Lễ chạm ngõ: chính thức hoá quan hệ của hai gia đình. Nhà trai chính thức đến đặt vấn đề cho hai đôi nam nữ được tìm hiểu, qua lại. Lễ chạm ngõ chỉ để hai bên gia đình hiểu về nhau hơn, lễ vật cũng đơn giản: chỉ là trầu cau.
Lễ ăn hỏi: nghi lễ thông báo chính thức về việc hứa hôn giữa hai đôi nam nữ. Nhà trai gồm bố chú rể và những người họ hàng thân tham dự, gồm cả một đội bạn của chủ rể bê tráp (thường là số lẻ: 5, 7 hoặc 9). Lễ vật thường là trầu cau, bia, rượu, bánh cốm (hoặc xu xê, bánh chưng, bánh dày), lợn quay… Tất cả các lễ vật được bày vào quả sơn son thếp vàng hoặc mâm đồng đánh bóng phủ vải đỏ. Cô dâu, chú rể trong ngày này thường mặc áo dài và comple, cà vạt.
Đám cưới chính thức sẽ gồm những lễ sau:
Lễ xin dâu: Nhà trai gồm những người thân, họ hàng và mẹ chú rể đến nhà gái đem cơi trầu để báo trước giờ nhà trai sẽ đến.
Lễ rước dâu: Trước khi vào đến nhà gái, nhà trai phải xếp hàng theo đúng nghi lễ.Thông thường, đi đầu là đại diện nhà trai – người sẽ đại diện nhà trai để phát biểu. Tiếp đến là bố chú rể, mẹ chú rể không đi đón dâu. Trước đây, khi nhà trai vào đến cổng nhà gái thường báo hiệu bằng một tràng pháo nhưng giờ đã bị bỏ. Sau khi đã vào nhà, nhà trai được mời ngồi và hai bên giới thiệu, rồi đại diện nhà trai có lời chính thức xin nhà gái được rước dâu về.
Nhà gái đáp lễ: Sau khi được nhà gái cho phép, chú rể vào phòng cô dâu để trao hoa và cùng cô dâu thắp hương bàn thờ lễ gia tiên rồi ra chào, mời nước họ hàng, bạn bè.
Trang phục: Chú rể thường mặc quần áo comple, cài hoa trước ngực, cô dâu mặc váy theo mốt châu Âu. Có những đám cưới cô dâu, chú rể vẫn mặc theo kiểu truyền thống: áo dài và áo trùng khăn xếp.
(Sưu tầm)